Trinh quốc công Bùi Quang Dũng là vị tướng nổi tiếng trung liệt – không thờ hai vua (triều Lê Đại Hành) nên sau này được Lý Thái Tổ tôn hiệu Minh Triết Phu Tử.
Tiểu sử
Thiên sách thượng tướng Trinh quốc công Bùi Quang Dũng sinh giờ Thìn ngày 10 tháng 1 năm Nhâm Ngọ (tức năm 922) trong một gia đình nông dân nghèo ở đất Phong Châu, Bạch Hạc (tỉnh Phú Thọ hiện nay). Từ trần tại nhà riêng vào giờ Dần, ngày 13 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018) năm Thuận Thiên thứ 9 nhà Lý, hưởng thọ 97 tuổi.
Lúc còn nhỏ, ông có tư chất thông minh khác người và rất hiếu thảo với cha mẹ, lễ phép với bề trên, thuận hoà với bè bạn nên được mọi người qúy mến. Ông học rộng, hiểu nhiều, lớn lên trí dũng toàn tài, tinh thông Binh, Nông, Văn, Võ.
Sự nghiệp
Dòng họ Bùi Quang ở ấp Hàm Châu xưa, nay là làng Đồng Thanh (xã Tân Bình, TP Thái Bình) còn lưu giữ gia phả cổ viết bằng chữ Hán, có đóng ấn của tuần phủ Thái Bình Phạm Văn Thụ năm 1919. Theo đó, Bùi Quang Dũng (921- 1018), sinh ra ở đất Phong Châu (Phú Thọ). Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, lớn lên nức tiếng gần xa về tài văn, võ. Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm cảnh loạn 12 sứ quân. Năm Bính Dần (966), Bùi Quang Dũng đã ngoài 40 tuổi.
Biết tiếng ông, Ngô Xương Xí (chiếm giữ vùng Bình Kiều, Triệu Sơn, Thanh Hóa) và Kiều Công Hãn, sứ quân giữ đất Phong Châu đều cho người đến mời. Bùi Quang Dũng từ chối, viện cớ: "Tôi con nhà làm ruộng, chỉ quen cày cấy, gặt hái, sớm tối vui với ruộng vườn mà thôi, còn việc đời thực không biết gì...". Sau đó, Đỗ Cảnh Thạc, sứ quân chiếm giữ Đỗ Động, Bảo Đà, Hà Đông cho tâm phúc là Nguyễn Văn Thao đến nhà Bùi Quang Dũng xin trọ học để thăm dò.
Phả Bùi Gia chép: "Ông Thao ở với gia đình cụ gần một tháng. Cụ thường đem chuyện cày cấy, buôn bán ra nói. Hễ ông Thao đả động đến chuyện loạn lạc, cụ chỉ ngồi lặng yên nghe, khi bàn đến chuyện can qua trận mạc, cụ tỏ ra sợ hãi". Cho rằng Bùi Quang Dũng không có tài cán gì, Nguyễn Văn Thao về nói với Đỗ Cảnh Thạc: "Người ta đều khen hắn là tài trí, nhưng tôi xem ra chỉ là hư danh mà thôi".
Bùi Quang Dũng có tâm nguyện riêng. Theo ông, "thờ vua phải biết chọn người. Những người ấy (chỉ Ngô Xương Xí, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn) thì làm được gì. Bây giờ chưa phải thời, chưa đến lúc chọn được minh chủ".
Năm Đinh Mão (967), hay tin (vua) Đinh Bộ Lĩnh, sứ quân tài trí hơn người, được sứ quân Trần Lãm ở Kỳ Bố (Thái Bình ngày nay) nhận làm con nuôi và cho giữ binh quyền. Biết (vua) Đinh Bộ Lĩnh là người cương trực, mưu lược và chí lớn, ông đã tụ tập được 600 quân binh và đưa về gia nhập với lực lượng Hoa Lư. Ông trở thành tướng của Đinh Bộ Lĩnh, lúc đó ông đã 45 tuổi.
Ông đã đem tài năng của mình, cùng với Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ, Trịnh Tú... dốc lòng phò tá nhà Đinh, thống nhất đất nước, lập nên triều đại nhà Đinh.
Các sứ quân lần lượt bị Đinh Bộ Lĩnh tiêu diệt, giang sơn quy về một mối. Năm Mậu Thìn (968), (vua) Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay), ban thưởng tướng sĩ, phong ông là Anh Dực tướng quân, sung Điện tiền Đô chỉ huy sứ kiêm Thiêm sự.
Năm 971, ở vùng Kỳ Bố, Ngô Văn Kháng nổi loạn, triều đình cử quân đánh dẹp nhưng thất bại. Vua cử danh tướng Bùi Quang Dũng cầm quân. Bằng uy đức của mình, ông dụ hàng Ngô Văn Kháng. Vua Đinh phong ông là Trấn Đông Tiết độ sứ, Tổng thống kiêm lý ba đạo, được đóng quân ở thành Kỳ Bố; sau lại thăng Đặc khai quốc Thiên sách Thượng tướng, tước An Tĩnh hầu và truy tặng thân phụ ông là Khải Tá hầu.
Tướng Bùi Quang Dũng khai khẩn đất hoang ở ven sông Lãng Bạc và sông Cái (sông Trà Lý ngày nay), biến vùng đất hoang vu thành làng xóm đông vui, đồng ruộng tươi tốt. Đất ông được vua ban gọi là ấp Hàm Châu. Ngoài Hàm Châu, ông lập ra 8 trại khác (nay thuộc địa bàn huyện Vũ Thư và TP Thái Bình). Cảm tạ công lao của ông, dân các làng đều đặt tên làng mình là Bùi Xá.
Khi vua Đinh Bộ Lĩnh bị hành thích, vua Lê Hoàn được tôn lên làm vua. Giặc Tống nhân Đại Việt có biến, đem quân xâm lược. Sau chiến thắng chống Tống (981), Bùi Quang Dũng lui về ở ẩn trong động Trinh Thạch, khi đó đã 60 tuổi.
Năm Kỷ Dậu (1009), (vua) Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều Lý. Thái Tổ ba lần cho người vời nhưng ông đều thoái thác, lấy cớ tuổi già. Năm Thuận Thiên thứ 2 (triều Lý Thái Tổ), vùng Kỳ Bố Hải Khẩu có giặc. Triều đình ba lần đánh dẹp nhưng đều bại. Tướng Nguyễn Uy dò biết lòng dân đều nhớ thâm ân của Bùi Quang Dũng bèn tấu về triều. Vua Lý Thái Tổ lại viết thư, sai Nguyễn Uy đem đến động Trinh Thạch mời ông về triều và nói rõ sự tình ở Kỳ Bố.
Lúc này, danh tướng Bùi Quang Dũng mới chịu xuất thế. Về kinh, ông được vua hậu đãi, ban hiệu là "Minh Triết Phu Tử", đối xử như thầy. Vua lại phong chức cũ thời Đinh của ông cho con trai ông là Bùi Quang Anh. Hai cha con Bùi Quang Dũng được phái về Kỳ Bố dẹp loạn. Khi ông tới nơi, giặc kéo nhau ra hàng.
Danh tướng Bùi Quang Dũng mất năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), thọ 97 tuổi. Lý Thái Tổ sai Bộ Lễ làm lễ cử ai và truy phong là Trịnh Quốc Công. Tháng 8 năm ấy, vua ngự đề văn bia Sự trạng ông; ngày 12-8, giao Thái sư Khuông Việt chép bản ngự chế lên bia đá. Thợ khắc đá Phạm Công Thắng vâng mệnh vua khắc bia. Sau đó, vua Lý cho người đem về từ đường ông ở ấp Hàm Châu để thờ.
Năm Thuận Thiên thứ 11 (1020), nhân đi tuần phòng phía đông, vua đến vùng Kỳ Bố và về ấp Hàm Châu viếng mộ ông. Tại từ đường thờ Bùi Quang Dũng, Thái Tổ Hoàng đế ngự đề đôi câu đối:
"Không thờ hai vua, tiếng trung liệt cao vời vợi, động Trinh Thạch 30 năm lừng tiếng. Hết sức giúp nền thống nhất, chí khí ngay thẳng vang dội, ấp Hàm Châu vạn cổ vẫn còn".
Sau khi về kinh, vua Lý Thái Tổ còn xuống chỉ cho họ Bùi ở Hàm Châu ba ngôi cấm địa (nơi chôn cất Bùi Quang Dũng và song thân). Triều đại Trần Thái Tông, Lê Thái Tông, cũng có chỉ cho họ Bùi ba ngôi cấm địa nguyên như trước. Vua Lê Thái Tông còn ban chữ: "Bùi thị hưng gia Thái tổ".
Đền thờ phụng
Từ đường Bùi Quang Dũng ở Tân Bình, Thành phố Thái Bình tỉnh Thái Bình thờ danh nhân Bùi Quang Dũng, danh tướng nhà Đinh và có công phù giúp nhà Lý dẹp loạn ở Kỳ Bố. Vua Đinh Tiên Hoàng phong Bùi Quang Dũng làm Trấn đông tiết độ sứ, đóng trị sở tại thành Kỳ Bố, kiêm chỉ huy 3 đạo quân thuộc vùng Đông Đạo (lúc này nhà Đinh có tất cả 10 đạo quân) và thăng cho hàm là Đặc tấn khai quốc thiên sách thượng tướng, tước Tĩnh an hầu.
Đình Đồng Đức ở xã Phúc Thành, Vũ Thư, Thái Bình Thờ thành hoàng làng Bùi Quang Dũng và Bùi Quang Đạt là những vị tướng thời Đinh Tiên Hoàng. Bùi Quang Dũng đã cùng quân sỹ khai khẩn các vùng đất hoang vu thuộc miền Đông đạo thành các cánh đồng tốt tươi, mầu mỡ, chiêu dân và đưa gia đình binh sỹ đến ở, cộng tất cả là 5 làng.
Đình Bùi Xá ở xã Minh Lãng, Vũ Thư, Thái Bình thờ thành hoàng làng Bùi Quang Dũng, vị tướng nhà Đinh có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân và khai khẩn vùng đất Kỳ Bố Hải Khẩu, Thái Bình ngày nay.
Nguồn: Hà Nội Mới
Ths Nguyễn Thy Ngà