Ngày 16/6/2022, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành 4 Nghị quyết quan trọng tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, là Nghị quyết 18, 19, 20 và Nghị quyết số 21. Báo Ninh Bình xin trân trọng giới thiệu bài viết của PGS, TS. Nguyễn Viết Thông về Những nội dung cơ bản và mới trong Nghị quyết T.Ư 5 (khóa XIII) về "Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới" (NQ số 21).
Quang cảnh Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Ảnh: TTXVN
1. Nghị quyết đánh giá rõ tình hình và nguyên nhân
a. Về kết quả
Nghị quyết chỉ rõ: Trong những năm qua, công tác xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên luôn được Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ:
- Tổ chức cơ sở đảng từng bước được củng cố, kiện toàn, sắp xếp phù hợp; chức năng, nhiệm vụ được sửa đổi, bổ sung; tăng cường công tác lãnh đạo, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
- Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy cơ sở được quan tâm.
- Chất lượng đội ngũ đảng viên có chuyển biến tích cực, trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị được nâng cao hơn; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, rà soát, sàng lọc, đánh giá, xếp loại chất lượng, kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ, xử lý đảng viên vi phạm, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
- Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" được đẩy mạnh; phần lớn đội ngũ đảng viên ở cở sở nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức tự phê bình và phê bình, tinh thần tiên phong, gương mẫu, xây dựng mối quan hệ với nhân dân, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.
- Công tác phát triển đảng viên được chú trọng, có cơ cấu độ tuổi tương đối phù hợp, số lượng đảng viên nữ, trẻ, đồng bào dân tộc thiểu số, người có tôn giáo, chủ doanh nghiệp tư nhân tăng, tạo nguồn cán bộ cho Đảng.
b. Về hạn chế, khuyết điểm
Nghị quyết chỉ rõ: Bên cạnh những kết quả đạt được, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế, ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở:
- Một số tổ chức cơ sở đảng chậm đổi mới phương thức lãnh đạo; thực hiện chưa nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; chất lượng sinh hoạt đảng, tinh thần tự phê bình và phê bình hạn chế; chưa giải quyết hiệu quả những khó khăn, bức xúc của nhân dân; chưa phân công thường xuyên và kiểm tra kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng viên.
- Một số cấp ủy cơ sở chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu; chưa chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; mất sức chiến đấu, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật, làm giảm niềm tin, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
- Chất lượng của tổ chức cơ sở đảng chưa theo kịp yêu cầu của quá trình phát triển. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong khu vực ngoài nhà nước, nhất là doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế, tỉ lệ tổ chức đảng, đảng viên thấp, vai trò mờ nhạt, còn lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động. Một số tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, ở ngoài nước... hoạt động còn khó khăn.
- Năng lực, trình độ của một bộ phận đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Một bộ phận đảng viên phai nhạt lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, chạy theo lối sống thực dụng; suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật.
- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên của một số tổ chức cơ sở đảng còn buông lỏng, chưa nắm chắc tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên; công tác đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên ở một số nơi còn hình thức, chạy theo thành tích, một số tổ chức cơ sở đảng chưa làm tốt công tác quản lý đảng viên; việc xét, miễn công tác và sinh hoạt đảng còn lỏng lẻo; chưa thường xuyên, kiên quyết rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
- Công tác phát triển đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng; chưa quan tâm công tác giáo dục lý tưởng cách mạng và rèn luyện, thử thách đối với quần chúng phấn đấu vào Đảng; nhận thức, động cơ phấn đấu vào Đảng, chất lượng của một số đảng viên mới còn hạn chế; cơ cấu đảng viên chưa hợp lý, tỉ lệ đảng viên trẻ chưa tương xứng với tiềm năng.
c. Về nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
Nghị quyết chỉ rõ: Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:
- Nhận thức của một số cấp ủy, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý về vai trò, vị trí, yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên chưa sâu sắc, toàn diện; một số cấp ủy năng lực lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả chưa cao.
- Một số quy định, hướng dẫn về tổ chức cơ sở đảng, đảng viên chậm được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.
- Một số nơi chưa chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; chưa quan tâm rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cho cán bộ, đảng viên; một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, sống thực dụng, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc, không muốn phấn đấu vào Đảng.
2. Nghị quyết xác định rõ 3 quan điểm chỉ đạo
- Quan điểm 1 về vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên: Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đội ngũ đảng viên có vai trò trực tiếp và là nhân tố cơ bản quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, liên tục, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, đảng viên, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Quan điểm 2 về tổ chức cơ sở đảng: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng phải gắn liền với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
- Quan điểm 3 về đảng viên: Tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, nâng cao bản lĩnh chính trị, tính tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc về sinh hoạt đảng và lời thề của đảng viên khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, quan tâm phát triển đảng trong đoàn viên, hội viên ưu tú, quần chúng tiêu biểu. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kịp thời và kiên quyết đưa những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
3. Nghị quyết xác định rõ mục tiêu
- Mục tiêu tổng quát: Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng của đội ngũ đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh. Xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy đủ năng lực, uy tín lãnh đạo tổ chức cơ sở đảng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị. Nâng cao chất lượng phát triển đảng viên đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Đến năm 2025: (1) Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. (2) Phấn đấu 100% thôn, bản có đảng viên. (3) Giai đoạn 2020 - 2025, phấn đấu tỉ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm đạt từ 3% - 4% tổng số đảng viên.
+ Đến năm 2030: (1) Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. (2) Phấn đấu 100% thôn, bản, tổ dân phố có chi bộ. (3) Giai đoạn 2025 - 2030, phấn đấu tỉ lệ kết nạp đảng viên mới đạt từ 3% - 4% tổng số đảng viên.
4. Nghị quyết xác định rõ hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Một là, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Thứ nhất, đổi mới, hoàn thiện tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng
(1) - Củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và thực hiện chủ trương của Đảng về công tác cán bộ. Nghiên cứu triển khai mô hình "chi bộ bốn tốt", "đảng bộ cơ sở bốn tốt", cụ thể là: Lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; chất lượng sinh hoạt tốt; đoàn kết, kỷ luật tốt; cán bộ, đảng viên tốt.
(2) - Tiếp tục củng cố, hoàn thiện mô hình tổ chức cơ sở đảng trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn. Đối với thôn, tổ dân phố có đông đảng viên thành lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và tổ chức thí điểm sinh hoạt tổ đảng, sinh hoạt chi bộ phù hợp với số lượng đảng viên. Tổng kết, đánh giá mô hình đảng bộ bộ phận để đề ra giải pháp phù hợp. Tiếp tục duy trì, củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các chi bộ quân sự, công an xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phù hợp với quy định về tổ chức đảng trong quân đội, công an.
(3) - Đổi mới mô hình tổ chức cơ sở đảng ở cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng, nhất là ở cấp huyện. Sắp xếp mô hình tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp theo ngành, lãnh thổ bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và phối hợp chặt chẽ với cấp ủy trên địa bàn. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng trong khu vực ngoài nhà nước, nhất là trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, đơn vị sự nghiệp tư.
(4) - Sắp xếp tổ chức cơ sở đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 50% vốn điều lệ trở xuống; củng cố, phát triển tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa nhằm tăng cường vai trò hạt nhân chính trị của đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đối với doanh nghiệp tư nhân, chỉ thành lập tổ chức đảng khi đã phát triển được đủ số lượng đảng viên, bảo đảm chất lượng, phát huy được vai trò lãnh đạo, định hướng hoạt động.
(5) - Thành lập đảng bộ cơ sở tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp; phát triển tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để lãnh đạo công tác đảng, công tác quần chúng, phân công cấp ủy cấp trên trực tiếp phụ trách.
(6)- Tổng kết mô hình tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã, tổ hợp tác, kinh tế trang trại...., tạo điều kiện cho đảng viên làm việc trong loại hình này có nơi sinh hoạt đảng ổn định, góp phần phát triển kinh tế, tham gia xây dựng tổ chức đảng.
Thứ hai, rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng
(1) - Khẩn trương nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa, triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định mới của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số mô hình tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị sự nghiệp Trung ương; đảng bộ, chi bộ cơ sở hoạt động ở nước ngoài; đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 50% vốn điều lệ trở xuống; đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước; tổ chức cơ sở đảng trong tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước.
(2) - Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng và quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở, bảo đảm phù hợp với thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ mới, trong đó, chú trọng các tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn; đảng bộ, chi bộ cơ sở ở cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, cơ quan báo chí, hội quần chúng, trường học, bệnh viện ngoài công lập, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp trong nước hoạt động ở nước ngoài, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác...
(3) - Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa tổ chức cơ sở đảng trong các tập đoàn, tổng công ty với cấp ủy địa phương, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của cấp ủy tập đoàn, tổng công ty, gắn với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy địa phương. Nghiên cứu xây dựng quy chế phối hợp giữa cấp ủy với chủ doanh nghiệp tư nhân, nhằm phát huy vai trò của tổ chức đảng.
(4) - Ban hành quy chế làm việc mẫu của cấp ủy cơ sở, làm căn cứ để mỗi cấp ủy, chi bộ xây dựng quy chế làm việc, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn ở cơ sở.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
(1) - Đổi mới nội dung, phương thức, phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, nâng cao năng lực của cấp ủy, bí thư cấp ủy ở cơ sở, bảo đảm vai trò hạt nhân và sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết trong Đảng.
(2) - Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, khắc phục tình trạng hình thức, chạy theo thành tích trong công tác đánh giá, xếp loại hằng năm.
(3) - Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, đảng viên về vai trò, vị trí, tầm quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo quy định của Ban Bí thư, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nội dung sinh hoạt chi bộ phải gắn với đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; kịp thời phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay từ cơ sở.
(4) - Thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt chi bộ; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết nội bộ; nâng cao chất lượng, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng theo hướng thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm; kịp thời thông tin, phổ biến, quán triệt chủ trương, nghị quyết, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình thời sự trong và ngoài nước; lắng nghe và giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đảng viên và nhân dân.
(5) - Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, hướng vào những vấn đề mới, cần quan tâm. Có giải pháp sinh hoạt đảng phù hợp đối với tổ chức đảng ở những địa bàn có nhiều đảng viên từ nơi khác đến, có nhiều khu công nghiệp, đơn sự nghiệp, doanh nghiệp tư nhân...; thí điểm sinh hoạt đảng trực tuyến ở một số vị đảng bộ, chi bộ đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt; tổ chức sinh hoạt đảng theo tổ đảng đối với một số nội dung phù hợp ở những chi bộ có đông đảng viên; nghiên cứu, triển khai thực hiện "Sổ tay đảng viên điện tử", "Sổ biên bản điện tử" ở những nơi có đủ điều kiện.
Thứ tư, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở
(1) - Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng, công tác quần chúng, kinh nghiệm thực tiễn, nhất là công tác dự báo, đánh giá tình hình, khả năng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng đáp ứng yêu cầu thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cho đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy cơ sở, bí thư, phó bí thư chi bộ.
(2) - Các cấp ủy viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu phải cao nêu trách nhiệm đối với công tác xây dựng Đảng ở đảng bộ, chi bộ nơi mình sinh hoạt; gương mẫu tham gia sinh hoạt đảng và chịu trách nhiệm khi tổ chức đảng nơi mình đang sinh hoạt yếu kém, xảy ra tham nhũng, tiêu cực.
(3) - Quan tâm xây dựng, tạo nguồn cán bộ cơ sở, lựa chọn bí thư chi bộ từ đảng viên ưu tú, có phẩm chất, năng lực tốt, được đảng viên, quần chúng tín nhiệm. Đối với chi bộ ở thôn, tổ dân phố, cần chú trọng lựa chọn đảng viên là cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, cựu quân nhân, người làm công tác xã hội có uy tín, năng lực để làm bí thư chi bộ.
(4) - Nghiên cứu cơ chế, chính sách đối với cán bộ chuyên trách làm công tác văn phòng cấp ủy cơ sở; chế độ phụ cấp cho cấp ủy viên ở những chi bộ có từ 100 đảng viên trở lên và chi bộ có tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ đặc thù còn gặp nhiều khó khăn; chế độ phụ cấp cho cán bộ đảng, đoàn thể, tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy cơ sở trong các doanh nghiệp tư nhân…
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Thứ nhất, đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên
(1) - Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, trình độ lý luận chính trị, tự giác nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
(2) - Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện, "tự soi", "tự sửa", đề cao danh dự của người đảng viên.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng
(1) - Cấp ủy cơ sở phải làm tốt công tác quản lý đảng viên; thường xuyên kiểm tra chi bộ, đảng viên thực hiện chế độ sinh hoạt đảng, công tác quản lý đảng viên của chi bộ; tăng cường công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước.
(2) - Cấp ủy, chi bộ phải phân công nhiệm vụ cụ thể, tạo điều kiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện của đảng viên. Mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện để chi ủy, chi bộ kiểm tra, giám sát, làm cơ sở để kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cuối năm.
(3) - Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên; phát hiện, động viên, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực; kịp thời nhắc nhở, giáo dục, giúp đỡ đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có khuyết điểm, vi phạm.
(4) - Sửa đổi, bổ sung, quy định chặt chẽ việc sinh hoạt đảng đối với đảng viên nghỉ hưu; xem xét miễn công tác và sinh hoạt đảng đối với đảng viên tuổi cao, sức khỏe yếu không thể tham gia sinh hoạt đảng, khắc phục tình trạng tùy tiện, buông lỏng quản lý, xem xét không đúng quy định.
(5) - Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Thứ ba, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên
(1) - Các cấp ủy căn cứ tình hình thực tế để xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên của cả nhiệm kỳ, hằng năm và thực hiện có hiệu quả. Tiếp tục tăng số lượng đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng phát triển đảng viên; quan tâm phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; phát triển đảng viên khu vực ngoài nhà nước, trong công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, miền núi, biên giới, hải đảo theo phương châm "Ở đâu có dân thì ở đó có đảng viên" nhằm tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp trước mắt và lâu dài.
(2) - Đối với các địa phương còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, trường học, doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên, cần tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác để tập hợp quần chúng, tạo nguồn kết nạp đảng viên, xây dựng lực lượng nòng cốt cho Đảng. Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng phân công cấp ủy viên phụ trách, cấp ủy cơ sở giao nhiệm vụ cụ thể cho các chi bộ trong việc phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào Đảng.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
(1) - Coi trọng tự kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng; kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên đề. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc thực hiện Điều lệ Đảng, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, sinh hoạt chi bộ, thực hiện nhiệm vụ công tác, trách nhiệm nêu gương, quy định về những điều đảng viên không được làm...
(2) - Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp ủy cơ sở về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; xử lý kịp thời đối với tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.
Bốn là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên
(1) - Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát việc thực hiện quy định nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của đảng viên ở nơi làm việc và nơi cư trú; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, từ đó phát hiện, lựa chọn nhân tố tích cực trong đoàn viên, hội viên, quần chúng, người có uy tín trong cộng đồng dân cư để giới thiệu cho Đảng.
(2) - Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, vận động, tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên./.
PGS,TS. Nguyễn Viết Thông
Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?